Tài sản như thế nào được xem là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng? quy định về tài sản chung vợ chồng theo Luật hôn nhân gia đình 2014.
Theo quy định tại điều 219 của Bộ luật dân sự 2015 và Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ thể sở hữu không được xác định đối với tài sản chung.
Nếu như thời kì hôn nhân (thời kỳ hôn nhân là khoản thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm phát sinh tài sản chung thì nguồn gốc tài sản có ý nghĩa xác định cụ thể những tài sản nào thuộc về tài sản chung của vợ chồng.
– Tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra”.
Ngay từ mặt hình thức, cái dấu phẩy trong luật đã chưa đựng ý chí của Nhà nước khi xây dựng Luật hôn nhân và gia đình. Rằng chỉ cần một bên vợ hoặc chồng tạo ra tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản đó được coi là tài sản chung của vợ chồng. Hành vi tạo ra tài sản không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng thực hiện. Xuất phát từ việc nhìn nhận vai trò của cả hai bên đối với tài sản chung là ngang nhau, nên pháp luật mới xác lập quyền sở hữu chung dựa trên nguồn gốc như vậy. Tuy nhiên, tạo ra chỉ được hiểu theo quan niệm của các nhà luật học, mà chưa được các văn bản pháp luật quy định cụ thể: “tạo ra” có nghĩa là một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng lao động bằng sức lao động trực tiếp của mình để tạo ra tài sản cho gia đình, sản xuất các loại đồ dung, vật dụng trong cuộc sống sinh hoạt gia đình; hoặc cũng có thể do vợ, chồng thu nhập hoặc các vật có giá trị trao đổi khác trong khối tài sản chung thuê hoặc mua quyền sở hữu tài sản do người thứ ba trực tiếp làm ra.
– Thu nhập của vợ, chồng có được trong thời kì hôn nhân.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ghi nhận: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là tài sản chung của vợ chồng”.
Như vậy, thu nhập của vợ, chồng có thể được hiểu là những lợi ích vật chất mà vợ, chồng có được bao gồm các khoản tiền công, tiền lương phát sinh từ các hoạt động lao động mang tính chất nghề nghiệp, không mang tính chất nghề nghiệp hoặc các khoản lợi tức phát sinh từ các hoạt động sử dụng, quản lí tài sản trong sản xuất kinh doanh hoặc trong giao lưu dân sự. Do quá trình phân công lao động xã hội mà vợ, chồng có thể làm những công việc khác nhau, phù hợp với khả năng của mỗi bên. Bất kể là một bên hay cả hai bên làm ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Ngoài các khoản thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh, vợ, chồng còn có thể có các thu nhập khác: tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được…
– Tài sản do vợ, chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung.
Đây là trường hợp xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng phụ thuộc vào sự định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy đinh của pháp luật về thừa kế.(BLDS)
– Quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp được thừa kế riêng". Đây là quy đinh mới có trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được tặng cho riêng, thừa kế riêng, nếu vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao hoặc cho thuê đất ở, giao đất nông nghiệp trông cây hàng năm,nuôi trồng thủy sản, đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng thì quyền sử dụng các loại đất này cũng thuộc sở hữu chung ngay cả khi một bên vợ, chồng không trực tiếp sử dụng đất đó.
– Tài sản thỏa thuận là tài sản chung
Căn cứ vào khoản 2 Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ghi nhận: “vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Theo đó, vợ chồng có thể thỏa thuận là tài sản chung. Việc thỏa thuận này ghi nhận sự bình đẳng trong việc thể hiện ý chí của vợ, chồng đối với khối tài sản chung. Nếu một bên muốn gia nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhưng bên kia không đồng ý thì sẽ không được nhập.
– Tài sản chung là những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng.
Khi xác định tài sản trong trường hợp có tranh chấp,không kể đó là tài sản riêng của vợ hay của chồng nhưng nếu không có căn cư chứng minh là tài sản riêng thì đó được coi là tài sản chung.
Trên đây là một số chia sẻ của Luật sư, mọi yêu cầu hỗ trợ quý vị hãy liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật 0915.27.05.27 của chúng tôi. Công ty luật Nhân Hòa chuyên dịch vụ luật sư uy tín, tin cậy đảm bảo giải quyết mọi vướng mắc bạn gặp phải.
Công ty Luật Nhân Hòa
Địa chỉ: 02 Hiệp Bình, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Tp.HCM
Email: luatsunhanhoa@gmail.com
Hotline: 0915. 27.05.27
Trân trọng!