KẾT HÔN VỚI NHIỀU NGƯỜI, CHIA THỪA KẾ NHƯ THẾ NÀO?

1.      Cơ sở pháp lí

-          Luật Hôn nhân và gia đình

-          Bộ luật dân sự

-          Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990

-          Thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978

 2.      Giải quyết vấn đề

 - Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2, Luật Hôn nhân và gia định năm 2014,

“ Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”, theo  pháp luật hiện hành của Việt Nam chỉ công nhận quan hệ hôn nhân một vợ một chồng.

 Theo đó, việc một người kết hôn với nhiều người là vi phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình, bởi lẽ theo quy định điểm c, Khoản 1, Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định nghiêm cấm các hành vi kết hôn với nhiều người hoặc chung sống như vợ chồng đối với người đã có vợ hoặc đã có chồng. Cụ thể, quy định như sau:

 Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

2. Cấm các hành vi sau đây:

…c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;”

 -  Tuy nhiên, quy định này có ngoại lệ, trong một số trường hợp Pháp luật Việt Nam vẫn công nhận mối quan hệ hôn nhân đối với việc kết hôn với nhiều người là hợp pháp, cụ thể trong một số trường hợp:

 + Thứ nhất, Trước khi Luật Hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực (13/01/1960). Đó là những trường hợp do hoàn cảnh lịch sử, xã hội lúc bấy giờ, quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng ở miền Bắc mặc dù vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng vẫn được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

 Tương tự, đối với miền Nam, những trường hợp có nhiều vợ, nhiều chồng trước ngày 25/03/1977 (thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình 1959 áp dụng trên phạm vi cả nước) vẫn được coi là hợp pháp.

 + Thứ hai, theo Khoản 1 Phần I Thông tư 60/TATC ngày 22/02/1978, cán bộ, bộ đội đã có vợ, có chồng ở trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ lấy chồng khác (giai đoạn Chiến tranh Việt Nam, 1954 – 1975). Trong trường hợp này, có thể công nhận cả 02 quan hệ hôn nhân, tức là một người có nhiều người vợ hợp pháp.

                   

                                 Liên hệ luật sư tư vấn pháp luật thừa kế 0915.27.05.27

 Chia trường hợp trong trường hợp kết hôn với nhiều người trong trường hợp quan hệ hôn nhân đối với nhiều người đó vẫn được coi là hợp pháp.

   Khi đã xác định được quan hệ hôn nhân mà người chồng có nhiều người vợ vẫn được coi là hợp pháp, thì việc chia di chúc sẽ thực hiện như sau:

*Trường hợp người để lại di sản có để lại di chúc và di chúc hợp pháp:

 Việc chia di sản được thực hiện theo nội dung di chúc đó.

 *Trường hợp di chúc không hợp pháp hoặc không có di chúc

 Thực hiện chia di sản theo pháp luật.

 Trong trường hợp, chia di sản theo pháp luật, theo khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 “- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”

 Khoản 2 Điều 651 BLDS 2015 quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.

Về trường hợp xác định nhiều người vợ  thuộc trong hàng thừa kế thứ nhất: Theo điểm a Mục 4 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định: "Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13/01/1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25/3/1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ".

 Như vậy, theo những quy định nêu trên, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản, bao gồm: nhiều người vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, con nuôi, cha mẹ (đương nhiên nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế) và được hưởng phần di sản bằng nhau.

 Trên đây là chia sẻ của luật sư, quy khách hàng có nhu cầu tư vấn pháp luật thừa kế, giải quyết tranh chấp thừa kế, lập di chúc,…vui lòng liên hệ với công ty luật Nhân Hòa – công ty luật chuyên sâu về vấn đề tư vấn và giải quyết thừa kế tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng  và cả nước nói chung, đống thời chúng tôi cũng chuyên nhận giải quyết tranh chấp thừa kế có yếu tố nước ngoài đối với những vụ việc từ đơn giản đến phức tạp. Hy vọng với sự chuyên nghiệp và kinh nghiệm của chúng tôi sẽ đem lại cho quý khách hàng sự tin tưởng và hài lòng nhất.

CÔNG TY LUẬT NHÂN HÒA

Địa chỉ: số 2 Hiệp Bình, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Tp.HCM

Hotline: 0915.27.05.27

Email: luatsunhanhoa@gmail.com

Trân trọng!


Bài viết xem thêm