TÀI SẢN CÓ TRƯỚC KHI KẾT HÔN THÌ ĐƯỢC CHIA NHƯ THẾ NÀO KHI LY HÔN

Tài sản có trước khi kết hôn thì khi ly hôn chia như thế nào? Phương pháp phân chia tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn theo quy định 2019.

Khi kết hôn ai cũng mong mình có một mái ấm gia đình yên ấm và hạnh phúc. Thế nhưng những năm gần đây, tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng, để lại nhiều hệ lụy cho gia đình và xã hội. Vậy tài sản có trước khi kết hôn khi ly hôn chia như thế nào ? Liệu trình độ học vấn, hoàn cảnh kinh tế, vùng miền có tác động tới việc chia tài sản trước hôn nhân khi ly hôn hay không ? Sau đây, qua bài viết này, Luật Nhân Hòa sẽ có câu trả lời cho các bạn.

Thứ nhất, khái niệm, dấu hiệu nhận biết tài sản trước khi kết hôn

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, sau khi kết hôn mỗi bên vẫn có tư cách cá nhân trong các quan hệ pháp luật hay quan hệ xã hội. Do đó, bên cạnh sở hữu chung hợp nhất, pháp luật quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 chỉ thừa nhận một loại sở hữu duy nhất là sở hữu chung hợp nhất. Từ khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành đến nay, quyền sở hữu riêng về tài sản của vợ, chồng mới được pháp luật công nhận. Pháp luật công nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng là phù hợp với quy định quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân đã được Hiến pháp thừa nhận.

Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, phương thức chia, quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt về tài sản của công dân. Bộ luật dân sự ban hành năm 2015 quy định chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình. Do vậy, khi chủ sở hữu tài sản tặng cho hoặc để lại thừa kế cho vợ hoặc chồng thì tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng cho hoặc được thừa kế phải là tài sản riêng của họ mới phù hợp với nguyện vọng, ý chí của người tặng cho hoặc người để lại tài sản. Quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng còn nhằm bảo đảm cho vợ, chồng có thể thực hiện các nghĩa vụ về tài sản một cách độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Trong thời kỳ hôn nhân, có thể chỉ một bên vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản cho người khác được coi là nghĩa vụ dân sự riêng.

Để tạo điều kiện cho vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ riêng thì pháp luật phải công nhận quyền sở hữu riêng về tài sản của vợ, chồng. Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích về tài sản cho người thứ ba. Ngoài ra, việc quy định quyền sở hữu riêng về tài sản của vợ, chồng còn góp phần ngăn chặn hiện tượng kết hôn nhằm với lợi ích kinh tế mà không nhằm xác lập quan hệ vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ hoặc chồng gồm tài sản mà vợ hoặc chồng có từ trước khi kết hôn. Khi xảy ra tranh chấp về tài sản chung, về mặt nguyên tắc, bên nào có tài sản riêng thì phải có nghĩa vụ chứng minh đó là tài sản riêng của mình, nếu không có căn cứ, cơ sở chứng minh được thì nó sẽ mặc định được coi là tài sản chung.

Thứ hai, tài sản có trước khi kết hôn khi ly hôn thực hiện chia theo phương thức sau:

Tài sản riêng của vợ hoặc chồng là những tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hoặc được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, với tư cách là chủ sở hữu tài sản, vợ, chồng có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu, đó là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tài sản mà vợ hoặc chồng được chia từ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó, pháp luật quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng nhằm đảm bảo quyền của vợ, chồng. Kể từ ngày thỏa thuận của vợ chồng có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33 và Điều 43 của Luật này. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Văn bản thỏa thuận phải ghi rõ các nội dung như: Tài sản được chia cho mỗi bên, phần tài sản còn lại không chia (nếu có), thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung…

Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. Về quan hệ tài sản giữa các bên mà quan hệ hôn nhân không được thừa nhận không thể có các quan hệ tài sản của vợ chồng. Việc thanh toán và phân chia tài sản chung của hai bên được thực hiện như trong trường hợp thanh toán và phân chia tài sản của một tài sản thực tế. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, sau khi việc kết hôn bị huỷ, thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của người đó, tài sản chung được chia theo thoả thuận, nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên, ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và các con. Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, quy định vợ, chồng có tài sản riêng không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc của vợ chồng và lợi ích của gia đình.

Trường hợp văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Đối với trường hợp vợ chồng chia tài sản mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định, nếu vợ chồng thực sự yêu thương nhau, chung sống hạnh phúc và không muốn có sự phân định tài sản chung, tài sản riêng thì có thể nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Tài sản riêng có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu chung của cả gia đình khi không có tài sản chung hoặc tuy có nhưng không đủ để đáp ứng nhu cầu chung.

– Tài sản chia cho ai thuộc sở hữu riêng của người đó. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

– Trường hợp vợ chồng chỉ chia một phần tài sản chung thì phần tài sản chung còn lại không chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó vẫn thuộc khối tài sản chung hợp nhất của vợ chồng.

Nếu một người không có tài sản riêng, thì người còn lại chịu trách nhiệm thanh toán chi phí bằng tài sản riêng của mình. Trái lại, có thể sẽ có khó khăn đối với thẩm phán trong trường hợp các đương sự xác lập các giao dịch quan trọng liên quan đến tài sản trong thời kỳ giữa ngày Toà án thụ lý đơn xin ly hôn và ngày bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật. Giả sử trong thời gian tiến hành tố tụng, vợ hoặc chồng trúng xổ số với số tiền thưởng lớn thì số tiền đó là tài sản riêng của người trúng thưởng hay là tài sản chung của vợ và chồng?

Trong khung cảnh của luật viết, thời kỳ hôn nhân kéo dài cho đến ngày có hiệu lực của bản án hoặc quyết định ly hôn, bởi vậy, tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra cho đến ngày đó phải là tài sản chung. Nhưng liệu giải pháp đó áp dụng được cho tất cả mọi trường hợp, nhất là trong điều kiện việc giải quyết một vụ án ly hôn nào đó cần một khoảng thời gian dài ?

Trên đây là một số chia sẻ của Luật sư, mọi yêu cầu hỗ trợ quý vị hãy liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật 0915.27.05.27 của chúng tôi. Công ty luật Nhân Hòa chuyên dịch vụ luật sư uy tín, tin cậy đảm bảo giải quyết mọi vướng mắc bạn gặp phải.

Công ty Luật Nhân Hòa

Địa chỉ: 02 Hiệp Bình, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, Tp.HCM

Email: luatsunhanhoa@gmail.com

Hotline: 0915. 27.05.27                                            

Trân trọng!

 

 


Bài viết xem thêm