1) Cơ sở pháp lý
- BLDS 2015
2) Giải quyết vấn đề
- Căn cứ vào Điều 664 BLDS quy định “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo đó, Di sản thừa kế theo di chúc sẽ được chia theo ý nguyện của người để lại di chúc, tức là trong di chúc quy định về việc phân chia tài sản như thế nào thì những người có quyền thừa kế phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo di chúc đó.
- Hiện nay, BLDS 2015 quy định có hai hình thức của di chúc là được lập thành văn bản và di chúc miệng, cụ thể:
“Điều 627. Hình thức của di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.” Vậy, câu hỏi được đặt ra là: “Trong trường hợp di chúc được viết taY thì bản di chúc đó cần có những điều kiện gì mới có hiệu lực pháp luật”?
Liên hệ luật sư tư vấn lập di chúc 0915.27.05.27
- Đầu tiên, người lập di chúc phải đáp ứng được điều kiện các điều kiện về chủ thể.
- Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS, đối với người lập di chúc thì họ phải đang trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Người minh mẫn; sáng suốt có thể hiểu là những người đảm bảo khả năng nhận thức và làm chủ hành vi như người thành niên bình thường. Theo đó, đối tượng được lập di chúc gồm những người thành niên không thuộc trường hợp: người bị mất năng lực hành vi dân sự hay đang trong tình trạng không tỉnh táo (trường hợp của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ).
- Đối với chủ thể là người hạn chế năng lực hành vi dân sự, theo thực tế họ vẫn là những người minh mẫn, sáng suốt nhưng do nghiện chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản gia đình nên mới trở thành chủ thể bị hạn chế năng lực hành vi. Di chúc của những người này lập nếu được lập sẽ phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 24 BLDS là “có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật”.
- Đặc biệt, đối với chủ thể là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, theo quy định tại Điều 630 BLDS thì khi những người này khi lập di chúc họ phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Quy định này được đặt ra vì họ là những người chưa nhận thức được hoàn thiện về mặt nhận thức hành vi của mình nên quy định này được đặt ra là hợp lý để bảo vệ những chủ thể này.
- Tiếp theo là điều kiện về người làm chứng
Di chúc viết tay có hai dạng là tự người để lại di sản viết hoặc nhờ người khác viết thay:
+ Trong trường hợp người để lại di sản mà tự họ viết thì không cần người làm chứng.
+ Trong trường hợp người để lại di sản nhờ người khác viết thì đòi hỏi phải có người làm chứng. Theo Điều 634 BLDS 2015 thì trường hợp này cần có trên hai người làm chứng cho quá trình viết di chúc. Người làm chứng cần đảm bảo điều kiện được quy định tại Điều 632, cụ thể:
“Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
- 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
- 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
- 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Theo đó, đối với hai người làm chứng được mời tham gia với điều kiện họ phải là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc diện người thừa kế hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung di chúc. Những người làm chứng này là những người không có liên quan đến việc chia thừa kế. Quy định này bảo đảm cho di chúc được thể hiện đúng ý chí của người lập di chúc;
- Điều kiện về nội dung di chúc
- Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 631 BLDS, những thông tin cần đảm bảo khi viết di chúc đó là ngày, tháng, năm lập di chúc, họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc, họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản, di sản để lại và nơi có di sản.
- Ngoài những nội dung được liệt kê ở trên thì người lập di chúc có thể thêm một số nội dung khác như: di sản dùng vào việc thờ cúng; việc di tặng theo các quy định tại Điều 645 và Điều 646 Bộ luật dân sự 2015.
- Đặc biệt, khi viết di chúc cần phải chú ý là trong quá trình viết tay di chúc; không được viết tắt hay viết bằng kí hiệu. Điều này nhằm đảm bảo thể hiện rõ được ý chí của người lập di chúc. Do việc viết tắt hay kí hiệu dễ dẫn đến hiểu lầm, qua đó gây ra khó khăn cho việc giải thích cũng như dễ phát sinh tranh chấp. Điều này được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 631 BLDS.
- Cuối cùng là điều kiện về việc xác nhận việc lập di chúc.
- Đối với di chúc viết tay phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trong trường hợp có người làm chứng thì cần thêm sự xác nhận và chữ ký của họ trong di chúc. Đây là điều kiện nhằm đảm bảo di chúc được viết ra đúng với ý chí của người để lại di sản thừa kế.
- Đặc biệt, trong trường hợp người lập di chúc là người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ thì căn cứ tại khoản 3 Điều 630 BLDS trường hợp này phải có người làm chứng và di chúc phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Trên đây là chai sẻ của luật sư. Quý khách hàng có nhu cầu tư vấn về pháp luật thừa kế, lập di chúc, chia tài sản thừa kế, giải quyết trnah chấp tài sản thừa kế vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin sau:
CÔNG TY LUẬT NHÂN HÒA
Địa chỉ: số 2 Hiệp Bình, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh
Hotline: 0915.27.05.27
Email: luatsunhanhoa@gmail.com.
Trân trọng!