Câu hỏi tư vấn:
Kính gửi luật sư. Tôi có câu hỏi mong được luật sư tư vấn ạ!
Gia đình tôi (gồm có tôi, vợ tôi và 2 con) đã sinh sống cùng với cha mẹ tôi từ năm 1990 đến nay. Ngôi nhà và đất chúng tôi đang ở đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình do cha tôi đứng tên đại diện vào năm 2012.
Năm 2013, gia đình tôi có họp mặt và bàn sẽ cắt chia cho em gái út 1 thửa đất trong phần đất đó để cô út xây nhà, có lập biên bản và chữ ký đồng thuận của tất cả các anh chị em trong gia đình.
Đến gần đây, chúng tôi mới được biết là cha tôi đã ra văn phòng công chứng ký giấy tặng cho toàn bộ phần đất và nhà trên cho người anh thứ ba.
Vậy luật sư cho tôi hỏi là cha tôi làm vậy có đúng quy định pháp luật không? Đất của hộ gia đình thì cha tôi có được quyền quyết định toàn bộ khi không có sự đồng ý của các thành viên khác hay không?
Tôi rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả lời: Cảm ơn anh đã quan tâm đến dịch vụ pháp lý về tư vấn pháp luật đất đai của công ty luật Nhân Hòa. Đối với vấn đề của anh, chúng tôi xin tư vấn như sau:
Thứ nhất, về việc tặng cho người em gái út một phần thửa đất có chữ ký xác nhận của các thành viên trong gia đình:
Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.”
Năm 2012, nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình anh và cha anh đại diện đứng tên “hộ ông”, như vậy, những thành viên có tên trong Sổ hộ khẩu của gia đình anh vào thời điểm được Cấp Giấy chứng nhận năm 2012 sẽ là những người đồng sở hữu đối với diện tích đất này.
Khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định: “3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.”
Như vậy, việc tặng cho đất đối với người em gái út tuy được sự đồng ý của các thành viên trong gia đình nhưng chỉ lập biên bản họp gia đình bằng giấy tay, không có công chứng và cũng không có đăng ký sang tên quyền sở hữu tại Văn phòng đăng ký đất đai tại UBND cấp quận/huyện nơi có đất là chưa đúng quy định pháp luật, về mặt pháp luật, phần đất này vẫn thuộc quyền sở hữu của hộ gia đình anh.
Thứ hai, việc cha anh tự ý tặng cho người anh thứ ba toàn bộ nhà đất của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì:
“Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư.”
Việc tặng cho đất cho người anh thứ ba phải được tất cả các thành viên trong hộ gia đình (tại thời điểm cấp sổ) ký tên hoặc có văn bản ủy quyền cho cha anh thì mới đúng quy định pháp luật.
Nếu hợp đồng tặng cho đã được công chứng nhưng không đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật thì cũng có thể bị vô hiệu.
Vì vậy, trong trường hợp này, các thành viên trong gia đình có thể thương lượng với anh ba của anh để giải quyết vụ việc trên hoặc nếu không thỏa thuận được thì có thể kiện ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh/thành phố nơi có đất để yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh ba của anh.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Mọi vấn đề thắc mắc cần hỗ trợ tư vấn cụ thể về pháp luật đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai xin vui lòng liên hệ về email: luatsunhanhoa@gmail.com hoặc gọi về hotline: 0915.27.05.27 hoặc liên hệ qua website: http://luatnhanhoa.vn/để được tư vấn hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng!